Nhà Nguyễn trực trị Trấn Tây Thành

Quản lý hành chính

Cao Miên và Nam Kỳ Lục tỉnh năm 1860 (tên các địa danh phủ huyện của Cao Miên do nhà Nguyễn đặt được phiên âm qua tiếng Pháp): Nam Thái (An-tai F), Phù Nam (Phou-Nam), Nam Ninh (Nam-nigne), Lư An (Lou-an), La Kết (La-Kiet), Tầm Vu (Tam-vou), Nam Vang (Nora-Vang), Kỳ Tô (Ki-to), Long Tôn (Long-ton), Ngọc Bi (Ngoc-bai), Ý Dĩ (Yao-dzi), Hải Tây (Hai-tai), Hải Đông (Hai-dong), Bình Xiêm (Bigne-Xien), Phúc Lai (Pheuoc-laḯ), Chấn Tài (Kieng-tai), Biển Hồ (Ho-hai-nhi), Bát tầm bang (Bato-an boun).

Trấn Tây Thành được chia ra làm 33 phủ và 2 huyện:[3][4]

Triều đình Huế hủy bỏ tước hiệu quan chức bản xứ của Chân Lạp và áp dụng quan chế nhà Nguyễn. Lê Đại Cương (sau được thay bằng Dương Văn Phong) được cử làm Tham tán đại thần, đặt một tướng quân, 4 chánh phó lãnh binh, cắt đặt các chức hiệp tán, đề đốc, lang trung, viên ngoại lang, giáo thụ, huấn đạo. Ở các chỗ yếu hiểm, lại đặt chức tuyên phủ, an phủ để phòng ngự.

Năm 1840, nhà vua sai Lê Văn Đức làm khâm sai đại thần, Doãn Uẩn làm phó và cùng với Trương Minh Giảng để kinh lý mọi việc ở Trấn Tây Thành, khám xét việc buôn bán, đo đạc ruộng đất, định lại thuế đinh, thuế thuyền bè buôn bán dưới sông.

Vua Minh Mạng đã cho lệnh tổng kê dân đinh nước Chân Lạp, vừa bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Nam thì có 970.516 người, đang khi đó thì ruộng đất lên đến 4.036.892 mẫu[5].

Lư An
Quảng Biên
Cần Chế
Nam Ninh
Lô Việt
Long Tôn
Ngọc Bài
Hải Tây
Tầm Vu
Hải Đông
Kỳ Tô
Phước Lai
Bình Xiêm
Khai Biên
Ý Dĩ
Nam Vang
Vị trí phủ huyện Trấn Tây phỏng theo bản đồ cổ Carte de la province de Saigon 1860

Quan hệ với người bản địa

Khi nhà Nguyễn chiếm được Nam Vang, lập Ang Chan II làm vua Chân Lạp thì mấy anh em là Ang Snguon, Ang Em, Ang Duong bỏ thành chạy theo quân Xiêm sang lưu vong ở Vọng Các. Xiêm triều lợi dụng yếu tố đó tìm cách đưa họ về Chân Lạp tranh ngôi vua với Ang Chan và khôi phục ảnh hưởng của Xiêm La.

Trong khi đó ở Trấn Tây, nhà Nguyễn phong tước hiệu cho ba người con gái của Ang Chan II:

  • Ang Pen (Ngọc Biện 玉卞, Brhat Anak Angga Ang Baen) (1809-1840) làm Lư An[6] huyện quân;
  • Ang Mey (Ngọc Vân 玉雲, Samdach Brhat Anak Angga Mei Khieu)(1815-1874?) làm Cao Miên quận chúa, nối ngôi vua cha;
  • Ang Snguon (Ngọc Nguyên 玉源) (1829-1875). làm Tạp Ninh[7] huyện quân; và
  • Ang Pou (Ngọc Thu 玉秋, Samdach Brhat Maha Uparajini Puyani) (1822-1878) làm Thâu Trung[8] huyện quân.

Năm 1839, Ang EmAng Duong đem 9.000 dân Khmer cùng 70 chiếc thuyền từ Battambang (vùng Xiêm chiếm đóng) về Trấn Tây (vùng Đại Nam cai quản), định xin triều đình nhà Nguyễn cho kế vị Ang Chan làm vua nhưng bị Trương Minh Giảng bắt. Triều đình cho giải Ang Em về Gia Định xét hỏi rồi đưa ra Huế giam.

Đến năm 1841, Trà Long (Chakrey Long)[9], Nhân Vu (Yumreach Hu)[10]La Kiên đến Huế mừng thọ vua Minh Mạng thì lại bị nhà vua hạch tội, bắt giam và đày ra Bắc Kỳ. Còn ở Trấn Tây thì Tham tán Dương Văn Phong khép cho Ngọc Biện (Ang Baen), chị của Ngọc Vân quận chúa, tội mưu phản với ý định trốn sang Xiêm, phải xử tử. Sau đó Trương Minh Giảng bắt Ngọc Vân và hai em gái là Ngọc Thu và Ngọc Nguyên về Gia Định giam lỏng ở đó. Các quan lại người Việt sang Trấn Tây Thành thì không ít kẻ lại làm nhiều chuyện trái phép lạm quyền, lạm thế và nhũng nhiễu dân tình.

Với thái độ tự đắc và miệt thị triều thần Chân Lạp gây nhiều bất mãn trong dân chúng, việc cai trị Trấn Tây càng ngày càng khó. Người Chân Lạp có cớ nổi loạn đánh phá khắp nơi, chống lại chính sách Việt hóa của triều đình Huế.[cần dẫn nguồn]. Em trai Ang Chan là Ang Duong nhân đó dấy binh, lại được người Xiêm hậu thuẫn để can thiệp nội bộ Chân Lạp, nên quan quân ở Trấn Tây luôn phải đánh dẹp hao tổn nhiều.

Năm 1840, mấy vạn quân Xiêm kéo vào đóng ở U Đông (Oudong), vua Minh Mạng sai tướng Phạm văn ĐiểnNguyễn Tiến Lâm mang quân lên đối phó nhưng không phá được.

Triệt thoái khỏi Trấn Tây

Phủ huyện thuộc Trấn Tây Thành
Tên ViệtChữ HánĐịa danh tương ứng ngày nay
Nam Vang南榮Phnom Penh
Kỳ Tô/Thời Tô (Thời Thâu)其蘇/辰蘇 (辰萩)Srey Santhor,[11] tỉnh Kandal
Tầm Đôn (Tầm Giun)尋敦 (尋惇)giáp đất Gia Định, có lẽ là Romdoul, tỉnh Svay Rieng
Tuy Lạp (Xui Rạp, Lôi Lạp)綏臘giáp đất Gia Định, có lẽ là Svay Rieng[12]
Ba Nam (Ba Cầu Nam)巴南 (巴求南)Peam Ro, Peam Mean Chey, tỉnh Prey Veng
Ba Lai (Ba Lầy)巴來 (巴淶)Baray, tỉnh Kampong Thom
Bình Xiêm (Bông Xiêm)平暹 (凡暹)Kampong Siem, tỉnh Kampong Cham[11]
Kha Bát (Lợi Ỷ Bát)哥捌 (利椅捌)Prey Kabbas, tỉnh Takeo
Lô Viên (Lô Yêm, Lư An)爐圓 (盧淹, 閭安)phía tây Phnom Penh, Lvea Aem, tỉnh Kandal
Hải Đông (Bông Xui)海東 (楓吹)Kampong Svay,[11] tỉnh Kampong Thom
Kim Trường金長giáp An Giang
Thâu Trung (Phủ Trung)輸忠 (中府)
Ca Âu (Ca Khu)歌謳 (歌塸)
Vọng Vân (Trung Hà)望雲 (中河)
Hà Bình河平
Trưng Lai (Trưng Lệ)徵來 (征例)
Sơn Phủ山甫
Sơn Bốc山卜Sambour
Tầm Vu (Mạt Tầm Vu)尋於 (末尋於)Tây nam Phnom Penh, tỉnh Kampong Speu
Khai Biên開邊vùng duyên hải tỉnh Koh Kong[11]
Hải Tây (Phủ Lật)海西 (撫栗)Pursat[11]
Kha Lâm (Ca Rừng)哥林 (柯棱)giáp đất Gia Định
Thê Lạp梯笠
Cẩm Bài錦牌
Lô Việt爐越Lovek, tỉnh Kampong Chhnang
Long Tôn龍樽phía bắc Phnom Penh[11]
Quảng Biên廣邊Kampot[11]
Hóa Di (Ba Di)化夷 (巴夷)
Chân Tài (Chân Lệ)真才 (真例)đông bắc Phnom Penh về mạn Kampong Cham
Ý Dĩ (Phủ Phủ)薏苡phía bắc Kampong Chhnang
Chân Thành (Chân Thiêm)真誠 (真占)huyện Hà Dương, An Giang
Mật Luật (Ngọc Luật)密律 (玉律)huyện Tây Xuyên, An Giang
Ô Môn烏門huyện Phong Phú, An Giang
huyện Cẩn Chế芹制Cần Ché
huyện Cẩn Đô芹漇Kanhchor (Prek Chamlak)
phía nam Cần Ché

Việc chiếm đóng Trấn Tây Thành cùng với chính sách cai trị mất lòng dân Chân Lạp của triều đình Huế là một gánh nặng cho đất nước, từ binh sĩ đến lương nhu đều hao thiệt nên đến Tháng 9 năm 1841, thấy tình hình Chân Lạp bất ổn mãi, Tạ Quang Cự và các đại thần dâng sớ xin bỏ bảo hộ Chân Lạp. Vua Thiệu Trị thuận theo, truyền cho quan quân Đại Nam rút quân về giữ An Giang.[13]

Lợi dụng tình huống bỏ ngỏ Chân Lạp, vua Xiêm đưa Ang Duong lên làm vua Chân Lạp. Chiến sự kéo dài khi quân Việt và quân Xiêm tiếp tục giao chiến từ năm 1841 đến 1845. Năm 1845, triều đình Huế và Vọng Các thỏa hiệp cùng bảo hộ xứ Chân Lạp và nhận triều cống của Ang Duong.